1. Thơ “LÀM BÁC SĨ"
Mi mẹ ngồi yên lặng
Để "bác sĩ" khám cho
Chắc lại đi đầu nắng
Bệnh này là bệnh ho
Thuốc ngọt chứ không đắng
Phải uống với nước sôi
Nếu tiêm thì đau lắm
Mẹ lại khóc nhè thôi
Mẹ bỗng hỏi "bác sĩ"
Sổ mũi uống thuốc gì?
"Bác sĩ" chừng hiểu ý
Uống sữa với bánh mỳ!
2. Thơ “BÉ LÀM HỌA SĨ”
Bé muốn làm họa sĩ
Để vẽ ông mặt trời
Với những tia nắng ấm
Sáng rực khắp muôn nơi
Bé thích làm họa sĩ
Để vẽ cô và mẹ
Mẹ có đôi mắt tròn
Còn cô cười rất tươi
Bé ước làm họa sĩ
Để vẽ bạn, vẽ trường
Vẽ những gì yêu thích
Đậm hình trên tranh bé.
3. Thơ “ƯỚC MƠ CỦA BÉ”
Nay em xếp hạc
Đếm đủ một trăm
Nhắm mắt ước thầm
Mong sao thành đạt
Em là bác sĩ
Chữa bệnh mọi người
Hay là cô giáoTrẻ nghèo em chăm
Là người đưa thư
Đêm niềm vui đến
Chân em đi khắp
Quê hương của mình
Mơ ước thật xinh
Là mơ hạnh phúc
Đến cho tất cả
Mọi người quanh ta.
4. Thơ “LÀM NGHỀ NHƯ BỐ”
Bố Tuấn lái tàu
Bố Hùng đốt lửa
Qua lắm vùng quê
Hùng, Tuấn rất mê
Làm nghề như bố
Bao nhiêu ghế nhỏ
Buôc níu vào nhau
Cu Tuấn làm tàu
Hùng làm người lái
Thổi kèn lá chuối
Cho tàu rời ga
Chạy khắp trong nhà
Tàu kêu: Thích! Thích!
5. Thơ “BÉ LÀM BAO NHIÊU NGHỀ”
Bé chơi làm thợ nề
Xây nên bao nhà cửa.
Bé chơi làm thợ mỏ
Đào lên thật nhiều than.
Bé chơi làm thợ hàn
Nối nhịp cầu đất nước
Bé chơi làm thầy thuốc
Chữa bệnh cho mọi người.
Bé chơi làm cô nuôi
Xúc cơm cho cháu bé.
Một ngày ở nhà trẻ
Bé "làm" bao nhiêu nghề.
Chiều mẹ đến đón về
Bé lại là ... cái Cún.
6. Thơ “CHÚ BỘ ĐỘI”
Chú là chú em
Chú đi tiền tuyến, nửa đêm chú về
Ba lô con cóc to bè
Mũ tai bèo bẻ vành xòe trên vai
Cả nhà mừng quá chú ơi!
Y như em đã mơ rồi đêm nao.
Chú về kể chuyện vui sao
Mỹ thua cũng khóc nhu nhiều trẻ con
Chắp tay lạy má xin cơm
Em mà có đói chẳng hèn thế đâu.
Muốn xin chiếc mũ tai bèo
Làm cô giải phóng, vượt đèo Trường Sơn.
7. Thơ “ĐI CÀY”
Chuối xanh một quả
Cắm bốn chân tre
Thành con trâu đực
Nhìn giống giống ghê!
Hai ngọn cờ ngô
Làm cây cày nhỏ
Đem ra giữa ngõ
Buộc trâu đi cày
Trâu ơi, gắng đi
Cày cho xong ruộng
Chiều ta về sớm
Cất chuồng cho Trâu
Vắt! vắt! đi nào
Sao trâu chậm thế?
Trâu mệt rồi ư?
Chúng mình nghỉ nhé!
Bóng mát ngõ trưa
Thả trâu ăn cỏ
Bé nằm ngủ quên
Tóc hiu hiu gió...
8. Thơ “XE CHỮA CHÁY”
Mình đỏ như lửa
Bụng chứa nước đầy
Tôi chạy như bay
Hét vang đường phố
Nhà nào bốc lửa
Tôi dập liền tay
Ai gọi chữa cháy?
" Có... ngay! Có... ngay!"
9. Thơ “ĐI BỪA”
Sáng nay mẹ dậy sớm
Dắt trâu đen đi bừa
Mẹ không quản xóm trưa
Bừa đất tơi thành luống
Để trồng ngô khoai sắn
Trồng quả ngọt rau tới
Cho thức ăn mọi người
Giữ môi trường xanh sạch
Sáng mai mẹ lại dắt
Chú trâu đen đi bừa.
10. Thơ “CÁI BÁT XINH XINH”
Mẹ cha công tác
Nhà máy Bát Tràng
Mang về cho bé
Cái Bát xinh xinh.
Từ bùn đất sét
Qua bàn tay cha
Qua bàn tay mẹ
Thành cái bát hoa
Nâng niu bé giữ
Mỗi bữa hằng ngày
Công cha,công mẹ
Bé cầm trên tay.
1. Truyện “BÁC NÔNG DÂN”
Từ sáng sớm, trên cánh đồng lúa chín vàng, các bác nông dân thoăn thoắt đưa liềm xén ngang từng khóm lúa.Mặt trời càng lên cao, mọi người càng gặt nhanh tay, mồ hôi nhỏ giọt và ướt đầm lưng áo. Nhìn những lượm lúa mẩy vàng óng các bác nông dân rất vui vì đã bỏ công chăm sóc để có một vụ mùa bội thu.
2. Truyện “BA ANH EM”
Một ông cụ có một ngôi nhà nhỏ và ba con trai. Cụ muốn cho các con học nghề bèn bảo các con:
-Các con, mỗi ngừoi hãy học lấy một nghề. Sau này, ai tỏ ra tải giỏi nhất cha sẽ cho ngôi nhà này.
Ba người con vâng lời. Họ chia tay nhau, mỗi người đi một ngả. Anh con cả học nghể thợ cạo: anh khéo léo lắm nên thường được vua mời vào cung để phục vụ nhà vua. Anh thứ hai học nghế đóng móng ngựa: anh cũng kéo léo lắm nên thường được đóng móng ngựa cho các vị đại thần. Người em út học múa kiếm rất thành thạo. Đúng ngày đã hẹn trước ba anh em về họp ở nhà cha. BÀ con hàng xóm rủ nhau đến chơi. Ba anh em chưa biết trổ tài bằng cách nào thì bỗng thấy một con thỏ cạhy nganag. Người anh cả vội vàng rút dao cạo và hộp xà phòng đuổi theo, cạo sạch sẽ bộ ria thò mà thỏ không bọ xây xát mép. Mọi người đều trầm trồ tán thưởng.
Bỗng một cỗ xe bốn ngựa kéo chạy qua. Anh thứ hai liền phóng theo, thay lại các bộ móng tươm tất, trong khi cỗ xe cứ cạhy như bay. Mọi người ai cũng phục tài.
Lúc đó trời bắt đầu mưa. Người con út rút kiếm ra sân múa.
Mưa càng to anh múa kiếm càng nhanh. Lúc trời lạnh, người anh vẫn khô ráo, không bị dính một giọt nước. Mọi người đều đồng ý thưởng ngôi nhà cho anh.
Nhưng ba anh em thương yêu nhau lắm. Họ vẫn chung sống cùng nhau trong một nhà. Họ ;làm ăn kéo lại tốt bụng, thật thà nên rất đông khách hàng và học trò. Họ sống bên nhau hòa thuận vui vẻ suốt đời.
3.
Truyện “Chim Thợ may”
Có một loài chim nhỏ, đuôi dài, rất đẹp và duyên dáng, nhưng vì ở tận trong rừng sâu nên không ai biết được. Nó buồn lắm. Một hôm, nó gặp Hổ than thở:
– Thưa Chúa Sơn Lâm, ở trong rừng, từ chim Sâu, chimGõ Kiến, Chèo Bẻo, Chích Chòe, cho đến Phượng Hoàng, chim Ưng, muôn loài đều có tên. Họ hàng nhà tôi khá đông lại đẹp cần cù, thông minh nữa. Ấy vậy mà chúng tôi không có tên tuổi gì cả. Như vậylà không công bằng, mong Chúa Sơn Lâm xem xét!
Hổ động viên:
– Yên Trí! Yên trí! Rồi đâu sẽ có đó. Theo ta, muốn có tên không khó. Cái khó là làm sao xứng với cái tên ấy thôi. Có gì đáng tự hào, nếu như nghe đến tên mình mà ai cũng căm ghét muốn tránh cho xa. Ta báo cho nhà chị biết, Phượng Hoàng đang mở cuộc thi làm tổ đấy. Nếu làm tổ khéo nhất, chắc chắn cả núi rừng này sẽ biết đến họ hàng nhà chị thôi.
Nghe Hổ nói vậy, nó phấn khởi quay về, tập trung cả họ hàng lại bàn việc làm tổ thế nào cho bền, cho đẹp. Theo phân công của chim mẹ, các chim thợ cần mẫn nhặt nhanh những cành lá úa dài, mảnh và bền cả những sợi bông, sợi len, sợi vải vương vãi dưới đất làm chỉ. Để bắt tay vào làm tổ, trước hết phải tìm hai cái lá to và chắc mọc sát nhau. Chim mẹ dùng mỏ sắt thay kim khâu túm các mép lá lại. Sau khi dùi thủng mép lá, chim mẹ cắn chỉ dùi qua lỗ thủng của lá để khâu từ mép lá đến cuống lá rồi dùng bông, sợi cỏ, sợi vải mềm để “rải thảm” và “ốp tường”. Một tuần sau chiếc tổ xinh xinh vừa bền đẹp đã hoàn thành. Cứ y như một thợ may lành nghề khâu vậy.
Kết quả, chiếc tổ ấy được bình là chiếc tổ đẹp nhất, bền nhất và đại gia đình nhà chim “vô danh” kia được Phượng Hoàng tặng danh hiệu “chim Thợ May”. Danh hiệu ấy trở thành tên của loài chim Thợ May đấy các cháu ạ!
4.
Truyện “Vẽ chân dung Mẹ”
Mẹ vừa ra ngoài một lát mà Đông đã nhớ mẹ. “Con đếm từ 1 đến 3 là mẹ phải về đấy nhé!” – Đông thầm nghĩ và giơ bàn tay ra bắt đầu đếm. Đông đếm mỗi con số kéo dài ra: “Một…” và vểnh tai lắng nghe. Ngoài cửa vẫn chưa nghe thấy tiếng chân mẹ. “Hai…” – Đông lại đếm con số hai rõ dài, và dỏng tai lắng nghe. Vẫn chưa có động tĩnh gì. Rồi Đông đếm con số ba dài hơn “Ba…”. Vẫn không có động tĩnh gì. Em bước đến cửa, dán mắt vào khe cửa nhìn ra ngoài, chẳng có ai cả. Mẹ chưa về. Đông nhớ mẹ quá! “ Mình sẽ vẽ chân dung mẹ!” Đông vẽ một vỏng tròn rõ to rồi hôn lên vòng tròn to đó. Nhẹ hôn lên hai vòng tròn nhỏ, Đông thì thầm: “Đây là đôi mắt của mẹ”. Đông vẽ tiếp đôi môi của mẹ. Vừa vẽ xong, Đông bổng nghe tiếng gõ cửa và giọng nói quen thuộc của mẹ: “Mẹ đây, cực cưng của mẹ”. Đông vội mở cửa và ào vào lòng mẹ, sung sướng reo lên: “Mẹ!”. Em ôm lấy cổ mẹ thì thầm: “Mẹ, con đếm đến 3 mà mẹ vẫn chưa về. Con hôn lên mắt mẹ thì mẹ về ngay”. Nói xong Đông hôn tiếp lên má mẹ.
5.
Truyện “Gà Trống Choai và hạt đậu”
Ngày xửa ngày xưa có một chàng Gà Trống Choai và một chị Gà Mái ghẹ. Trống Choai lúc nào cũng vội vội vàng vàng, Gà Mái nhẹ nhàng bảo:
- Trống Choai, đi đâu mà vội, Trống Choai, đi đâu mà vội.
Một lần, Trống Choai mổ được ít hạt đậu, nhưng nuốt vội quá nên bị hóc. Hạt đậu mắc cứng trong cổ họng làm cho anh Trống Choai không thở được, không nghe được gì hết, cứ nằm im như chết.
Gà Mái hết hồn, chạy vội đi tìm bà chủ kêu toáng lên:
- Bà chủ ơi, bà cho tôi xin tí bơ để xoa cổ Gà Trống, nó bị hóc một hạt đậu rồi.Gà chạy đi tìm Bò mẹ xin nó ít sữa, để bà chủ chưng lên thành bơ, bơ ấy tôi đem xoa cổ Gà Trống, nó bị hóc một hạt đậu rồi.
- Gà chạy nhanh đi tìm ông chủ, bảo ông ấy cho tôi ăn bó cỏ.- Bò mẹ nói.
Gà Mái lại hớt ha hớt hải đi tìm ông chủ:
- Ông chủ ơi, ông chủ! Ông đem cho Bò mẹ bó cỏ tươi, Bò sẽ cho tôi ít sữa để bà chủ chưng lên thành bơ, bơ ấy tôi đem xoa cổ Gà Trống, nó bị hóc một hạt đậu rồi.
- Gà chạy nhanh đến bác thợ rèn, bảo ông ấy đưa cho cái liềm cắt cỏ - Ông chủ nói. Gà Mái lại ba chân bốn cẳng chạy đến bác thợ rèn:
- Bác thợ rèn ơi, bác cho ông chủ tôi mượn cái liềm để ông chủ tôi cắt cỏ cho bò ăn, Bò sẽ cho tôi ít sữa để bà chủ chưng lên thành bơ, bơ ấy tôi đem xoa cổ Gà Trống, nó bị hóc một hạt đậu rồi.
Bác thợ rèn chạy ngay vào nhà lấy liềm cho gà mượn, Gà chạy như bay về nhà đưa liềm cho ông chủ, ông chủ cắt ngay bó cỏ tươi cho bò ăn, rồi Bò cho một cốc sữa, gà cõng cốc sữa trên lưng chạy lên nhà đưa cho bà chủ, bà chủ chưng ngay cốc sữa thành miếng bơ đưa cho chị gà. Chị Gà mang ngay miếng bơ cho vào miệng Gà Trống, thế là miếng bơ cùng với hạt đậu trôi tuột xuống cổ. Chú Trống Choai tỉnh ngay, bật dậy cất giọng gáy vang: “Ò, ó, o...o...”
CÂU ĐỐ
1. Chú cảnh sát giao thông
Ai người đi sớm về trưa
Gió sương chẳng quản, nắng mưa chẳng sờn
Đứng canh ở các ngả đường
Người xe qua lại bốn phương an toàn?
2. Cô giáo
Ai dạy bé hát
Chải tóc hằng ngày
Ai kể chuyện hay
Khuyên bé đừng khóc?
3.Cái mũ
Cái gì bằng vải
Dùng để đội đầu
Trời nắng chang chang
Che đầu cho bé?
4.Cô tạp vụ
Ai cầm cái chổi
Chăm chỉ miệt mài
Quét dọn hàng ngày
Cho trường sạch sẽ?
ĐỒNG DAO
1. Cái Bống đi chợ cầu Canh
Cái bống đi chợ cầu Canh
Cái tôm đi trước, củ hành đi sau
Con cua lạch đạch theo hầu
Cá chày rơi xuống vỡ đầu con cua
2. Tay đẹp
Một tay đẹp
Hai tay đẹp
Ba tay đẹp
Tay dệt vải
Tay vãi rau
Tay buông câu
Tay chặt củi
Tay đắp núi
Tay đào song
Tay cạo long
Tay mổ lợn
Tay bắt vượn
Tay bắt voi
Tay bẻ roi
Tay đánh hổ